Ba kích hay ba kích tím còn gọi là cây ruột gà, Ba kích thiên, Sáy cáy (Thái), Chầu phóng sì (Tày), Chổi hoàng kim, Chày kiằng đòi (Dao), Thao tày cáy (Mán). Tên khoa học: Morinda officinalis How, họ Cà phê (Rubiaceae).
Rễ hình trụ tròn hay hơi dẹt, cong queo, dài 3 cm trở lên, đường kính 0,3 cm trở lên. Mặt ngoài màu nâu xám hoặc nâu nhạt, có nhiều vân dọc và ngang. Nhiều chỗ nứt ngang sâu tới lõi gỗ. Mặt cắt có phần thịt dày màu tím xám hoặc màu hồng nhạt, giữa là lõi gỗ nhỏ màu vàng nâu. Vị hơi ngọt và hơi chát.
Cây ba kích
Cây ba kích mọc hoang ở ven rừng, trên đồi rậm giữa các bụi bờ, bãi hoang. Nhiều nhất ở Quảng Ninh (Hải Ninh, Hồng Quảng), Hà Tây, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang.
Có thể đào lấy rễ quanh năm, tốt nhất vào mùa thu đông. Rễ được rửa sạch đất cát, loại bỏ rễ con, phơi khô tới khi không dính tay, đập nhẹ cho bẹp, phơi đến khô hoặc sấy nhẹ đến khô.
Ba kích khô
Hiện nay, lượng Ba kích dược liệu giả trôi nổi xuất hiện rất nhiều trên thị trường. Bạn cần chọn nhà cung cấp uy tín để mua dược liệu đúng chuẩn.
Dược liệu ba kích
Trong rễ chứa thành phần hóa học chính là các hợp chất anthranoid: tectoquinon, 1 – hydroxyl – 2, 3 dimethyl – anthraquinon,…
Ngoài ra còn antraglycozid, các hợp chất iridoid: asperulosid, morofficialosid,… đường: fructose, glucose, sucrose và fructo-oligosaccharides, nhựa, acid hữu cơ, phytosterol và ít tinh dầu, morindin.
Rễ ba kích tươi có chứa vitamin C (Rễ khô không có Vitamin C).
Có rất nhiều nghiên cứu đã được tiến hành ở Trung Quốc về tác dụng của Ba kích. Những nghiên cứu này cho thấy:
Ba kích bổ dương, mạnh gân xương. Chủ trị: Liệt dương, di tinh, tử cung lạnh, phụ nữ khó mang thai, kinh không đều, bụng dưới đau lạnh, phong thấp tê đau, gân xương mềm yếu.
Ngày dùng từ 3g đến 9g. Dạng sắc uống. Thường phối hợp với một số vị thuốc khác.
Ba kích thiên hoàn: Ba kích thiên 12g, Ngũ vị tử 6g, Nhân sâm 8g (nếu không có, thay Đảng sâm lượng gấp đôi), Thục địa 16g, Nhục thung dung, Long cốt, Cốt toái bổ, mỗi thứ 12g, tán bột mịn, luyện mật làm hoàn, mỗi lần 12g, mỗi ngày 2 – 3 lần.
Ba kích thiên, Đảng sâm, Phúc bồn tử, Thỏ ty tử, mỗi thứ 12g, Sơn dược 24g, Thần khúc 12g, tán bột mịn luyện mật làm hoàn, mỗi lần uống 12g, ngày 2 – 3 lần.
Kim cang hoàn: Ba kích thiên, Xuyên tỳ giải, Nhục thung dung, Đỗ trọng, Thỏ ty tử, lượng bằng nhau, Lộc thai 1 bộ, tán bột mịn, luyện mật làm hoàn, mỗi lần uống 8g, ngày 2 – 3 lần với nước sôi ấm.
Ba kích nhục 10g, Thục địa 10g, Nhân sâm 4g, Thỏ ty tử 6g, Bổ cốt toái 5g, Tiểu hồi hương 2g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Ba kích khu tý thang: Ba kích 12g, Đỗ trọng 12g, Ngưu tất 12g, Xuyên tục đoạn 12g, Tang ký sinh 10g, Sơn thù nhục 8g, Hoài sơn 16g, sắc uống.
Theo Đông y, thông thường khi sử dụng thuốc, người ta không bao giờ sử dụng 1 vị mà là sử dụng 1 bài thuốc. Sai lầm phổ biến của nhiều người đó là cứ đồ ngon, có hiệu quả nhanh, đặc biệt là rượu thuốc là uống và uống nhiều thì sẽ trở nên quá liều.
Vị thuốc ba kích có tính ấm và ôn bổ thận dương làm mạnh gân cốt, đồng thời có công dụng tráng dương. Nếu chỉ uống rượu ba kích để bồi bổ thận dương thì công dụng rất nhanh nhưng về lâu dài sẽ dễ dẫn đến suy nhược sinh dục.
Với những người bị suy nhược sinh dục tốt nhất nên đến khoa nam học ở các bệnh viện y học cổ truyền. Vì suy nhược cần phải biết suy nhược ở đâu, thận âm hay thận dương hay ở cả 2 để bồi bổ cho đúng chứ không phải chỉ làm cho cương cứng tức thời.
Đa phần việc ngâm rượu thuốc là tự phát, truyền tai nhau hoặc người dân đọc ở đâu đó có bài thuốc ngâm rượu tráng dương rồi làm theo, ngâm nhiều thứ lại với nhau mà không biết việc phối hợp các dược liệu này có hợp với nhau và hợp với cơ địa, thể trạng của người dùng không. Điều này dẫn đến nhiều nguy cơ như ngộ độc rượu, ngộ độc thuốc (quá liều), không đúng bệnh.
Nguồn st